Bai Thuoc Nam
Monday, May 17, 2010
Cây bồ công anh làm thuốc
Cây bồ công anh.
Loại cây này còn có tên là rau bồ cóc, diếp dại, mũi mác, rau bao; thường mọc hoang ở nhiều nơi. Theo y học cổ truyền, bồ công anh vị đắng ngọt, tính lạnh, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu thũng, chữa các bệnh mụn nhọt, lở loét, viêm dạ dày - tá tràng, viêm gan, viêm họng..
Một số bài thuốc nam thường dùng trong dân gian:
- Mắt đau sưng đỏ: Bồ công anh 40 g, dành dành 12 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm tuyến vú, tắc tia sữa: Bồ công anh 30-50 g tươi, giã nát vắt lấy nước cốt uống, bã đắp lên vú.
- Mụn nhọt: Bồ công anh 40 g, bèo cái 50 g, sài đất 20 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm họng: Bồ công anh 40 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo nam 10 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm loét dạ dày, tá tràng: Bồ công anh 40 g, lá khôi, nghệ vàng 20 g, mai mực 10 g, cam thảo 5 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm phổi, phế quản: Bồ công anh 40 g, vỏ rễ dâu 20 g, hạt tía tô 10 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo nam 10 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm gan virus: Bồ công anh 30 g, nhân trần 20 g, chó đẻ răng cưa (kiềm vườn) 20 g, rau má 30 g, cam thảo nam 20g. Sắc uống ngày một thang.
BS Anh Minh, Sức Khỏe & Đời Sống
Bài thuốc từ cây bồ công anh Việt Nam
Cây bồ công anh Việt Nam.
Bồ công anh là một vị thuốc kinh nghiệm trong nhân dân, dùng để chữa bệnh sưng vú, tắc tia sữa, mụn nhọt đang sưng mủ, hay bị mụn nhọt, đinh râu, bệnh đau dạ dày và ăn uống kém tiêu.
Trên thực tế, bồ công anh được dùng để chỉ ít nhất 3 loại cây khác nhau:
- Bồ công anh Việt Nam (chữ "Việt Nam" mới thêm vào để khỏi nhầm với hai loại cây còn lại), phổ biến ở miền Bắc và bắc Trung bộ, còn gọi là rau bồ cóc, diếp dại, mũi mác, diếp trời, mũi cày.
- Bồ công anh Trung Quốc, là loại cây được ghi trong các sách Trung Quốc.
- Cây chỉ thiên, được nhân dân một số vùng ở miền Nam gọi là bồ công anh, và dùng như bồ công anh Trung Quốc
Bồ công anh Việt Nam (trong bài gọi là bồ công anh) là loại cây nhỏ, thường cao 0,6-1 m, đôi khi cao tới 3 m, thân mọc thẳng, nhẵn, không cành hoặc rất ít cành. Lá cây có nhiều hình dạng: lá phía dưới dài 30 cm, rộng 5-6 cm, gần như không có cuống, chia thành nhiều thùy hay răng cưa to, thô; lá trên ngắn hơn, không chia thùy, mép có răng cưa thưa. Nếu ta bấm vào lá và thân đều thấy tiết ra nhũ dịch màu trắng đục như sữa, vị hơi đắng. Hoa màu vàng, có loại màu tím, cả hai loại đều dùng làm thuốc được.
Bồ công anh mọc hoang tại nhiều tỉnh miền bắc nước ta. Đây là loại cây rất dễ trồng bằng hạt, mùa trồng vào tháng 3-4 hoặc 9-10, cũng có thể trồng bằng mẩu gốc, sau 4 tháng là có thể thu hoạch được. Thường thì nhân dân ta hái lá về dùng tươi hay phơi hoặc sấy khô để dùng dần, không cần chế biến gì đặc biệt.
Liều dùng hàng ngày khoảng 20-40 g lá tươi hoặc 10-15 g lá khô (hay cành và lá khô). Ta có thể dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác; thường dùng dưới dạng thuốc sắc có thêm đường cho dễ uống. Nếu dùng giã nát đắp ngoài thì không kể liều lượng.
Những đơn thuốc có bồ công anh Việt Nam:
- Chữa sưng vú, tắc tia sữa: hái 20-40 g lá bồ công anh tươi, rửa sạch, thêm ít muối, giã nát, vắt lấy nước uống, còn bã dùng đắp lên nơi vú sưng đau. Thường chỉ dùng 2-3 lần là đỡ.
- Chữa ăn uống kém tiêu, hay bị mụn nhọt: lá bồ công anh khô 10-15 g; nước 600 ml (khoảng 3 bát con); sắc còn 200 ml (1 bát) (có thể đun sôi kỹ và giữ sôi trong vòng 15 phút); uống liên tục trong vòng 3-5 ngày, có thể kéo dài hơn.
- Chữa đau dạ dày: lá bồ công anh khô 20 g; lá khôi 15 g; lá khổ sâm 10 g; thêm 300 ml nước, đun sôi trong vòng 15 phút, thêm ít đường vào, rồi chia 3 lần uống trong ngày. Uống liên tục trong vòng 10 ngày, sau đó nghỉ 3 ngày rồi uống tiếp cho đến khi khỏi.
GS.TS Đỗ Tất Lợi
(Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)
Rau bồ cóc, diếp dại, mũi mác, rau bao
Một số bài thuốc nam thường dùng trong dân gian:
- Mắt đau sưng đỏ: Bồ công anh 40 g, dành dành 12 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm tuyến vú, tắc tia sữa: Bồ công anh 30-50 g tươi, giã nát vắt lấy nước cốt uống, bã đắp lên vú.
- Mụn nhọt: Bồ công anh 40 g, bèo cái 50 g, sài đất 20 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm họng: Bồ công anh 40 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo nam 10 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm loét dạ dày, tá tràng: Bồ công anh 40 g, lá khôi, nghệ vàng 20 g, mai mực 10 g, cam thảo 5 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm phổi, phế quản: Bồ công anh 40 g, vỏ rễ dâu 20 g, hạt tía tô 10 g, kim ngân hoa 20 g, cam thảo nam 10 g. Sắc uống ngày một thang.
- Viêm gan virus: Bồ công anh 30 g, nhân trần 20 g, chó đẻ răng cưa (kiềm vườn) 20 g, rau má 30 g, cam thảo nam 20g. Sắc uống ngày một thang.
BS Anh Minh, Sức Khỏe & Đời Sống
|
Nhưng nhờ sự phát triển mạnh mẽ của cây non sinh ra tù những hạt giống như thế ( ví dụ cây đậu hà lan và cây đậu), nếu được gieo giữa bãi cỏ mọc dài, tôi nghi là giá trị chủ yếu các chất dinh dưỡng trong hạt giúp cho sự phát triển của cây non, khi cạnh tranh với những cây khác mọc mạnh mẽ xung quanh. Nhìn một cái cây nằm giữa khóm, tại sao không gấp đôi hay nhân bốn nó lên? Ta biết là nó hoàn toàn có thể chịu được một chút nóng hay lạnh hơn tí nữa, ẩm ướt hay khô hanh, kể cả khi chúng bị đặt vào những nơi khác hơi lạnh hơn hay nóng hơn, ẩm hơn hay khô hơn.
Khi ấy ta có thể thấy rõ ràng là nếu ta muốn tạo cho cây khả năng tăng trưởng nhanh về số lượng thì ta phải tạo cho chúng lợi thế tốt hơn những loài cạnh tranh khác, hoặc hơn những loài động vật ăn săn chúng làm mồi. Trên ranh giới phân bố địa lý của nó, một thay đổi liên quan đến khí hậu rõ ràng sẽ là lợi thế cho cây trồng, nhưng ta có cơ sở cho rằng chỉ có một vài cây hoặc vật phân bổ quá xa đến nỗi chúng bị tiêu diệt chỉ bởi tính khắc nghiệt của khí hậu. Không phải chỉ khi ta chạm tới ranh giới cuối cùng sự sống, ở những vùng băng giá, hay biên giới sa mạc thì cuộc cạnh tranh mới ngưng lại. Vùng đất đó có thể rất lạnh và khô hanh, tuy nhiên sẽ có cuộc cạnh tranh giữa một vài loài, hoặc giữa những cá thể cùng loài, để giành những nơi ấm nhất và ẩm ướt nhất.
Taraxacum officinale - Bồ Công Anh
Mô tả
Lịch sử cuộc sống
Habitat
Đây là một trang web liên kết quan tâm: http://www.missouriplants.com/Yellowalt/Taraxacum_erythrospermum_page.h tml
Phân phối
Hai loài bồ công anh là cỏ dại cỏ thông thường, Taraxacum officinale và erythrospermum T.. Hai loài có thể khó khăn để phân biệt. Sự khác biệt nhất giữa chúng là màu sắc của các quả bế (một Quả bế là một, hạt trái cây indehiscent đơn, trong dandelions, Quả bế con gấu một dù "fluffy" cung cấp cho phổ biến, gió). Các quả bế của T. erythrospermum có màu nâu đỏ, những người của T. officinale là màu xanh lá cây ô liu.
Dandelions ban đầu được phân phối rộng rãi trên toàn miền bắc Eurasia. Họ đã được đưa đến Bắc Mỹ và Úc như là cỏ dại, và có lẽ vì nhiều công dụng của họ. Họ đang thực vật phổ biến ở khắp các vùng ôn đới. Các tên bồ công anh là một derivation của Pháp cũ, Dent-de-sư tử, nghĩa là "răng sư tử" trên tài khoản của lá mạnh thùy của nhà máy.
Hạt giống nảy mầm hay xảy ra ở rất gần mặt đất. Ánh sáng làm tăng sự nảy mầm. Hạt nảy mầm khi đất được ẩm và nhiệt độ đất tối thiểu là 50 ° F, tuy nhiên, nảy mầm là nhanh hơn khi nhiệt độ đất được gần 77 ° F. Nảy mầm xảy ra trong suốt mùa phát triển. Giai đoạn cây con có thể kéo dài 8-15 tuần, phụ thuộc vào nhiệt độ và điều kiện phát triển. Cây giống tăng trưởng chậm hơn trong thời tiết lạnh. Hoa bắt đầu ngay sau khi giai đoạn cây giống và tiếp tục trong suốt cuộc đời của nhà máy. Cây bồ công anh có thể tồn tại trong nhiều năm, phát triển lớn, thân răng dày 6-10 inch trên. Các nhà máy này lâu năm đều được thích nghi với vùng tưới chẳng hạn như trong turfgrass, đồng cỏ, hoặc cỏ linh lăng, nơi thường xuyên mowing hoặc chăn thả được thực hiện.
Thường gặp bồ công anh là một nhà máy giới thiệu ở Bắc Mỹ. (Taraxacum officinale, Weber, T. Densleonis, Desf; Leontodon Taraxacum, Linn),. Mặc dù không xảy ra ở Nam bán cầu, là ở nhà trong tất cả các phần của vùng ôn đới phía bắc, trong đồng cỏ, đồng cỏ và trên mặt đất thải, và vì vậy mà phong phú nông dân ở khắp mọi nơi tìm thấy nó một weed phiền hà, cho dù hoa của nó là dễ thấy hơn trong những tháng đầu của mùa hè, nó có thể được tìm thấy trong hoa, và do đó cũng prolifically phân tán hạt giống của nó, hầu như suốt cả năm.
Từ gốc vòi dày của nó, màu nâu sẫm, gần như màu đen bên ngoài mặc dù màu trắng và màu trắng đục bên trong, các lá dài lởm chởm tăng trực tiếp, tỏa ra từ nó để tạo thành một nơ thắt hình hoa hồng Iying gần khi mặt đất, mỗi lá được rãnh và xây dựng để tất cả các thuộc vào nó được tiến hành thẳng đến trung tâm của nơ thắt hình hoa hồng và do đó vào thư mục gốc đó là, do đó mưa, cũng luôn được giữ tưới. Số tiền tối đa của nước là theo cách này hướng đến khu vực thích hợp cho việc sử dụng của người chủ, đó nhưng đối với sự sắp xếp này sẽ không có được đủ độ ẩm, lá đang được lan truyền quá gần mặt đất cho các nước để xâm nhập. Các lá sáng bóng và không có lông, mép của mỗi lá cắt thành răng lớn lởm chởm, hoặc thẳng hoặc chỉ hơi lùi, và các răng được tự cắt ở đây và ở vào răng thấp hơn. Nó là hơi kỳ lạ này giống với các răng nanh của con sư tử đó (nó thường được giả định) cung cấp cho các nhà máy tên quen thuộc nhất của bồ công anh, mà là một tham nhũng của Pháp Dent de Lion, tương đương của tên này được tìm thấy không chỉ Các tụ điểm cụ thể trong tên Latin trước đây của nó leonis và trong tên tiếng Hy Lạp có chi mà Linnaeus được giao nó, Leontodon, mà còn ở gần như tất cả các ngôn ngữ của châu Âu.
Scientific Name
Description
Two species of dandelion are common lawn weeds, Taraxacum officinale and T. erythrospermum. The two species can be difficult to distinguish. The best distinction between them is the color of the achenes (an achene is a indehiscent, single seeded fruit; in dandelions, the achene bears a fluffy "parachute" that provides for wind dissemination). The achenes of T. erythrospermum are reddish brown, those of T. officinale are olive green.
Here's a web link of interest: http://www.missouriplants.com/Yellowalt/Taraxacum_erythrospermum_page.h tml
Habitat
Life History
Distribution